Thái tử nhân hiếu Lý_Hoằng

Khi trở thành Thái tử, Lý Hoằng còn chưa đến tuổi thực sự có thể đọc sách. Khi Lý Hoằng bắt đầu đi học, ông tỏ ra là người chăm chỉ và lễ độ.

Có lần thị giảng Quách Du (郭瑜) dạy ông về Tả truyện, đến đoạn Sở Mục vương giết cha là Sở Thành vương để soán ngôi, Lý Hoằng cảm thấy bất bình, than rằng:"Loại sự tình này làm thần tử nghe đến thật không đành lòng, thánh hiền kinh điển hẳn là chỉ ghi lại chuyện tốt để đời sau nghe theo, vì cái gì phải nhớ tới cái này?" và than khóc rất nhiều. Quách Du nói: “Khổng Tử viết 《Xuân thu》, thiện ác sự việc đều ghi lại, là vì biểu dương thiện hạnh, lấy đó mà khuyên can đại chúng, ác hành lấy báo cho đời sau. Viết đến chuyện ác của Mị Thương Thần (tức Sở Mục vương), đúng là đem này tội ác để tiếng xấu muôn đời”. Thái tử lại nói:“Loại chuyện này, không chỉ có giảng không ra khỏi miệng, nghe nói cũng không đành lòng, xin cho ta học sách khác”. Quách Du nghe vậy khen ngợi Thái tử nhân đức, ngay sau đó dạy 《Lễ Ký[7].

Thái tử Lý Hoằng nhân hiếu như vậy, rất được Đường Cao Tông ngợi khen:"Thập phần nhân hiếu, tiếp đãi đại thần phù hợp lễ tiết, cũng không có khuyết điểm"[8].

Lý Hoằng thập phần coi trọng nghiên cứu học vấn. Năm Long Sóc nguyên niên (661), Lý Hoằng mệnh đám người Hứa Kính Tông, Hứa Ngữ Sư, Thượng Quan Nghi, Dương Tư Kiệm thu thập cổ kim văn tập, lựa chọn và ghi lại 500 thiên, biên tổng thể 《Dao sơn ngọc thải - 瑶山玉彩》, được đến Cao Tông ban thưởng lụa gấm 30.000 đoạn[9]. Năm Tổng Chương nguyên niên (668), Lý Hoằng xin truy tặng Nhan Hồi làm Thái tử thiếu sư (太子少师), Tằng Tham làm Thái tử thiếu bảo (太子少保)[9].

Năm Tổng Chương thứ 2 (669), lực lượng Đường dưới sự chỉ huy của Lý Tích đã tiêu diệt được Vương quốc Cao Câu Ly. Khi đó, trong quân có lệnh rằng bất kỳ quân sĩ nào đào ngũ thì sẽ bị chém đầu, cả nhà người đó bị bắt làm nô bộc. Lý Hoằng cho rằng lệnh ấy quá khắc nghiệt, vì có những quân sĩ chưa hẳn đào ngũ mà có thể do họ bị bệnh, hay bị địch bắt hay chết trong trận không thấy xác, dâng sớ xin bỏ lệnh, tấu rằng:“Thần nghe nói, quân đội trưng binh, phàm là không có báo danh đúng lúc thì cả nhà đều sẽ bị liên lụy, thậm chí chưa bị định tội đã bị cầm tù, nhân số đông đảo. Nhưng giữa những người đó, có người vì bệnh tật mới quá hạn không đến, hoặc là đi đường gặp sơn tặc, qua sông gặp nạn, sợ hãi đào vong, thân chịu trọng thương... rất nhiều loại tình hình, quân pháp lại luận tội đến cả thân thuộc của họ. (Thần cho rằng) quân pháp nên chiếu cố tình hình thực tế, nếu không phải chết trận đã bị định tội hoặc là ghi chú đào vong, cũng liên lụy bọn họ người nhà, thật sự (có oan) đáng giá đồng tình. Thần hy vọng có thể chỉnh sửa pháp luật, về sau trong nhà có binh lính đào vong, cũng không cần chịu tội liên đới”, Cao Tông bằng lòng[10].

Năm Hàm Hanh thứ 2 (671), Võ hậu cùng Cao Tông về đông đô Lạc Dương, Thái tử Lý Hoằng được giao nhiệm vụ ở lại Trường An giám quốc. Nhưng do sức khỏe của ông không đảm bảo nên quyền lực thuộc về các tể tướng Trương Văn Quán (張文瓘), Tiêu Đức Chiêu (蕭德昭) và Đái Chí Đức (戴至德)[11]. Khi được tin Quan Trung gặp nạn đói lớn, dân binh phải ăn cả cámvỏ cây, Lý Hoằng bèn mở kho thóc phân phát đến Đồng châu[12] để cứu tế[13].

Hai người con gái của Tiêu thục phiNghĩa Dương công chúa (義陽公主) và Cao An công chúa (高安公主) bị Võ hậu câu thúc trong cung, đến gần 30 vẫn chưa được lấy chồng[14]. Cảm thương cho tình cảnh của hai người chị, Lý Hoằng xin với Cao Tông cho thả hai Công chúa ra và gả chồng cho họ, liền đem hai Công chúa gả cho Dực quân Quyền Nhị (權毅) và Toánh châu Thứ sử Vương Úc (王勖)[15].

Năm Hàm Hanh thứ 4 (673), tháng 2, Thái tử Lý Hoằng lấy con gái của Bùi Cư Đạo (裴居道) làm Thái tử phi.